Đề bài: Cảm nhận của em về bài thơ Tràng Giang
Bài làm
Cảm nhận của em về bài thơ Tràng Giang – Dù đã hơn nữa thế kỉ trôi xa, nhưng trên thi đàn dân tộc vẫn phảng phất dư vị ngọt ngào của phong trào Thơ mới. Nổi bật lên trên nền trời nghệ thuật ấy là hồn thơ Huy Cận với tập thơ "Lửa thiêng" thể hiện tâm thế thời đại mang nỗi sầu nhân thế, nỗi buồn của người dân mất nước. Đây là tập thơ hay toàn bích, nhuần nhị, đằm thắm, hài hoà Đông – Tây, kim – cổ, kết tinh nhiều giá trị văn hoá truyền thống, mà Tràng Giang là một trong những thi phẩm xuất sắc.
Cảm hứng chủ đạo của bài thơ đã người đọc có thể cảm nhận được ngay từ câu từ đề từ. Nhà thơ đã viết: “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”. Thứ nhất chúng ta có thể hiểu câu đề từ này chủ thể của “bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” là con người. Còn có thể hiểu theo một cách khác đó chính là chủ thể là tạo vật. Trời rộng bâng khuâng nhớ sông dài. Từ đó ta thấy được câu thơ mang đầy cảm hứng về sự giao hòa giữa thiên nhiên và con người. Cả con người và trời đất đều mang nỗi niềm, từ trong lòng người mà lan tỏa lên cảnh vật, từ tâm cảnh ra ngoại cảnh “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song,
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Từ láy “điệp điệp” vừa thật gợi hình lại vừa thật gợi cảm. Khiến cho ta có thể tưởng tượng ra hình ảnh những làn song nhỏ đang chuyển động nhẹ nhàng, liên tiếp nhau trải dài trên dòng sông bao la. Từ đó đồng thời dấy lên trong lòng người đọc cảm nhận được về nỗi buồn của thi nhân như cũng đang hòa tan vào dòng nước. Hai con sóng (sóng nước và sóng lòng) quyện hòa vào nhau, tạo thành một dòng sông tâm trạng. Hình ảnh con thuyền đang trôi như vô định, sự chuyển động như vô tri mặc cho xuôi theo dòng nước và hình ảnh đối xứng “thuyền về – nước lại” gợi ra sự chia ly như càng khắc họa rõ hơn nỗi buồn đó. Cuối đoạn thơ ta lại bắt gặp một hình ảnh vô cùng ấn tượng tượng đó là: Củi (một cành) – Dòng (mấy). Củi tượng trưng cho hình ảnh một con người; dòng ở đây tương trưng cho dòng đời, sự bao la của cuộc sống. Câu thơ đã gợi lên sự bơ vơ, cô đơn của con người trước sự mênh mang của vũ trụ, của cuộc đời. Thi nhân cảm thấy mình thật lạc lõng, đơn độc, bé nhỏ trong sự to lớn, biến chuyển không ngừng của dòng chảy cuộc sống. Một câu thơ bảy chữ vỡ ra thành sáu mảnh cô đơn.
Lơ thơ cồn cỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Cảm nhận của em về bài thơ Tràng Giang
Hai câu thơ đầu với “cồn cát” nhỏ lại “lơ thơ”, “gió” thì “ đìu hiu” tất cả những hình ảnh này đều gợi lên khung cảnh thiên nhiên vắng vẻ đến thê lương. Mặc dù ở câu thơ sau ta thấy sự xuất hiện của con người nhưng hoạt động của con người đã ở thời điểm vãn bóng. Điều này lại càng khiến cho khung cảnh cho nên vắng lặng hơn. Sự xuất hiện của con người mới chớm đó nhưng lại nhanh chóng rời đi. Ở câu thơ “nắng xuống trời lên sâu chót vót” không gian hai chiều như được mở ra đó chính là chiều cao và chiều sâu cùng với sự mênh mông dàn trải của “sông dài, trời rộng, bến cô liêu” thì con người lại càng trở nên bé nhỏ, đơn côi hơn. Với cách sử dụng từ độc đáo, âm hưởng trầm bổng, nhà thơ Huy Cận như muốn lấy âm thanh để xoá nhoà không gian buồn tẻ hiện hữu nhưng không thành. Nỗi buồn của lòng người cứ thế hiện hữu bao phủ chiếm cả không gian, đất trời, vũ trụ.
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Cảnh vật dường như đã có màu sắc hơn nhưng không những không khiến cho khung cảnh trở nên tươi vui hơn mà ngược lại tăng thêm nỗi buồn. Sự xuất hiện của hình ảnh “cánh bèo- hàng nối hàng” những tưởng sẽ thể hiện sự đông đúc tươi vui thế chỗ cho cái đơn côi “củi một cành”. Nhưng những “cánh bèo” đó lại chính là hình ảnh số phận của những con người nhỏ bé đang trôi dạt trong vô định. Một nét vẽ tượng trưng thứ hai đem đến liên tưởng những kiếp người lưu lạc, trên dòng đời. Đúng là sầu nhân thế, vạn cổ sầu. Ở câu thơ “Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng” từ "lặng lẽ" đã được nhà thơ Huy Cận dụng ý đảo lên đầu câu nhằm nhấn mạnh. Cảnh vật cũng như con người vẫn ở bên nhau, tiếp nối nhau nhưng dường như không có sự liên quan. Không đò, không cầu: gợi không gian xa cách không có cầu nối. Không gian thiên nhiên có thêm màu sắc nhưng nỗi buồn càng đậm và sâu hơn.
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc.
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Hai câu thơ đầu cảnh vừa mang vẻ đẹp cổ điển vừa mang vẻ đẹp hiện đại. Nhà thơ đã sử dụng bút pháp ước lệ trong thơ cổ với hình ảnh “cánh chim”, “mây”, “núi bạc”. Cánh chim trong hoàng hôn bé nhỏ, lẫn vào trong nắng chiều, mang trĩu nặng những tâm trạng của nhà thơ. Tương phản với hình ảnh cánh chim nhỏ bé đó là hình ảnh của thiên nhiên kì vĩ, bao la “lớp lớp mây cao đùn núi bạc”. Hai câu thơ cuối vừa mang phong vị cổ điển vừa trực tiếp nói lên tâm trạng buồn nhớ quê hương của nhà thơ. Ta đã bắt gặp hình ảnh tương tự trong thơ cổ qua bài thơ của Thôi Hiệu:
Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng xử nhân sầu.
Huy Cận đã mượn ý thơ của người xưa để thể hiện một nỗi nhớ quê hương dường như đã có từ lâu của mình. “Không khói hoàng hôn”, không có tín hiệu ở ngoại cảnh nhưng nỗi nhớ vẫn được gợi lên trong tâm cảnh. Một nỗi nhớ in sâu trong tâm khảm của nhà thơ. Khổ thơ cuối chính là sự kết tinh về nội dung và nghệ thuật của bài thơ. Nỗi nhớ quê, nhớ nhà mênh mang như gửi về mọi phía chân trời và đang trôi theo Tràng Giang.
Bài thơ Tràng Giang đã đem đến người đọc bức tranh thiên nhiên sông nước gần gũi quen thuộc nhưng vắng lặng và bức tranh tâm trạng mang nỗi sầu thiên cổ của nhà thơ. Cảnh đẹp nhưng lại buồn. Đồng thời đây cũng là bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ của Huy Cận trước Cách mạng tháng 8.
Họa Tâm